Chuyện “cõng rắn” của chúa Nguyễn Ánh

Những năm đầu thập niên 1780, cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn mà người cuối cùng còn sống sót là Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn đã đến hồi khốc liệt.

Những năm đầu thập niên 1780, cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn mà người cuối cùng còn sống sót là Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn đã đến hồi khốc liệt. Đến năm 1783 thì thế trận nghiêng hẳn về phía Tây Sơn, chúa Nguyễn phải chạy ra những đảo xa để tránh cuộc truy sát của đối phương. Năm 1784, thế cùng lực tận, theo lời đề nghị của một tướng Xiêm (Thái Lan) trong cuộc gặp gỡ tại Long Xuyên, Nguyễn Ánh quyết định tạm thời sang Xiêm tá túc, chờ cơ hội lật ngược thế cờ.

Tháng 3 Âm lịch năm này, vua Xiêm “bèn ước hẹn giúp quân để mưu đồ khôi phục. Vua thứ hai nước Xiêm nhân đó nhắc đến việc năm trước giảng hòa với Nguyễn Hữu Thụy (Nguyễn Văn Thoại) đã có thề ước với nhau là gặp hoạn nạn thì cứu nhau, thì ngày nay xin phải ra sức. Bèn đưa những vật Nguyễn Hữu Thụy tặng là cờ đào và gươm ra để làm tin, rồi định ngày cử binh”. (Đại Nam Thực Lục – Tập Một – NXB Giáo dục – Hà Nội 2002, trang 221) Tháng 6 Âm lịch năm ấy, Nguyễn Ánh mang quân về Gia Định, vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền theo giúp.

Lực lượng quân Xiêm được đặt dưới sự chỉ huy chung của tướng Việt là Bình Tây Đại Đô đốc Châu Văn Tiếp, bắt đầu tiến đánh đạo Kiên Giang, rồi thẳng đến Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc… Tháng 10 Âm lịch năm 1784, Châu Văn Tiếp tử trận trong trận đánh tại sông Mân Thít. Tháng sau, “vua thấy quân Xiêm tàn bạo, đến đâu là cướp bóc đấy, nhân dân ta oán rất nhiều, bảo các tướng rằng: ‘Muốn được nước phải được lòng dân. Nay Chu (Châu) Văn Tiếp đã mất, quân Xiêm không ai chế ngự được.

Nếu được Gia Định mà mất lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Thà hãy lui quân để đừng làm khổ nhân dân’” (Đại Nam Thực Lục – sđd, trang 222). Cuối năm (âm lịch) đó, quân Xiêm bị phục binh của nhà Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ đánh một trận tan tác. Tháng 4 Âm lịch năm sau (1785), được tin về sự lộng hành của quân Xiêm tại Gia Định, vua Xiêm nổi giận định chém hai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương là những người chỉ huy trực tiếp đạo quân này, may nhờ Nguyễn Ánh can gián nên họ thoát chết.

Qua những sự kiện lịch sử trên, ta có thể thấy rõ những lập luận cho rằng quân Xiêm xâm lược nước ta và Nguyễn Ánh “cõng rắn cắn gà nhà” là không đứng vững, vì các lý do sau: Hành động xâm lược chỉ có thực khi quân đội nước này sang tấn công một nước khác, đánh bại quân nước đó và chiếm đóng lâu dài. Trong trường hợp kể trên, quân Xiêm được triều đình nước này cử đi tăng cường cho lực lượng có sẵn của chúa Nguyễn Ánh và đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của tướng Việt là Châu Văn Tiếp thì chỉ có thể nói đó là đạo quân đánh thuê hơn là đạo quân xâm lược.

Không thể coi Nguyễn Ánh là “cõng rắn” khi ông sử dụng quân Xiêm như một công cụ để tăng cường sức mạnh của quân đội do ông và các tướng Việt chỉ huy. Việc quân Xiêm lợi dụng cơ hội để tàn hại dân lành là một tình huống bất ngờ trong chiến tranh, nằm ngoài dự kiến của cả phía Việt lẫn phía Xiêm. Tất nhiên, Nguyễn Ánh và các tướng của ông phải chịu trách nhiệm về biến động này, và như những phát biểu của ông với các tướng, điều này chỉ có tính nhất thời và vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của phía Việt.

Nếu quân Xiêm được đưa sang Đại Việt nhằm mục đích xâm lược, vua Xiêm đã không nổi trận lôi đình đòi mang hai người cháu ra chém đầu về những việc làm tệ hại mà binh lính của họ đã gây ra. Qua việc vua Xiêm công bố về thỏa thuận của cả hai bên “đã có thề ước với nhau là gặp hoạn nạn thì cứu nhau”, có thể thấy rằng vào những thế kỷ XVIII – XIX, các nước Đông Nam Á đã có một thỏa thuận mặc nhiên là nước này gặp nguy biến có thể nhờ một nước khác mang quân sang giúp.

Tất nhiên khi đã nhờ nước khác sang giúp mình thì không thể coi họ là đạo quân xâm lược. Điều này đã được nhiều lần chứng minh trong lịch sử: năm 1785, trong thời gian nương náu tại Vọng Các (Bangkok), các tướng Việt đã có dịp giúp quân Xiêm đánh tan cuộc xâm lăng của quân Miến Điện (Diến Điện, nay là Myanmar); thế kỷ XIX và các thế kỷ trước, mỗi lần nước láng giềng Chân Lạp bị lân bang Xiêm La xâm lấn, họ yêu cầu quân ta kéo sang Nam Vang để giúp đẩy lùi cuộc ngoại xâm, không có lịch sử nước nào gọi quân ta là quân xâm lược.

Ngay giữa cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn, nhiều lần nước Lào tình nguyện đưa quân sang tấn công vào mặt tây bắc của Đại Việt để phân tán lực lượng của quân Tây Sơn (còn kiểm soát miền trung và miền bắc Đại Việt), giúp chúa Nguyễn Ánh rảnh tay giải quyết các chiến trường phía Nam.

Nguồn: Lê Nguyễn

Cùng danh mục

 
Tư vấn ngay