Cuộc diện kiến vua Minh Mạng của Jean Baptiste và Michel Đức Chaigneau

Vào thập niên 1800, sau khi vua Gia Long đã thống nhất đất nước, chiến tranh không còn nữa, phần lớn người Pháp đã theo ông trong cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn vào những thập niên 1780-1790 lần lượt rời Việt Nam. Đến đầu thập niên 1810,

Vào thập niên 1800, sau khi vua Gia Long đã thống nhất đất nước, chiến tranh không còn nữa, phần lớn người Pháp đã theo ông trong cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn vào những thập niên 1780-1790 lần lượt rời Việt Nam. Đến đầu thập niên 1810, tại triều đình Huế, chỉ còn hai người Pháp là J.B. Chaigneau Nguyễn Văn Thắng và Philippe Vannier Nguyễn Văn Chấn. Họ tiếp tục ở lại Việt Nam vì mối quan hệ hôn nhân với hai phụ nữ Việt, đã cho ra đời những người con hai dòng máu Việt-Pháp. Bên cạnh đó, còn là tình cảm gắn bó mà vua Gia Long và họ đã dành cho nhau. Sự khéo léo, sự chân tình mà nhà vua đã dành cho họ là chất keo gắn kết họ với đất nước này.

Jean Baptiste Chaigneau và vua Minh Mạng

Tuy nhiên, vào những năm cuối đời của vua Gia Long, Chaigneau bị thôi thúc bởi lòng nhớ cố hương, ông nhiều lần xin vua Gia Long trở về Pháp, cuối cùng nhà vua xiêu lòng, cho ông về nghỉ phép 3 năm rồi quay trở lại. Khi về đến Paris, Chaigneau đã gặp phải một chuyện ngoài dự kiến, đó là việc hoàng đế Pháp Louis XVIII quyết định cử ông làm Lãnh sự kiêm Đặc ủy của nhà vua tại triều đình Việt Nam.

Nhận lãnh trọng trách, tất nhiên Chaigneau không thể kéo dài chuyến nghỉ phép mà phài quay lại Việt Nam sớm hơn dự tính. Dù vậy, khi tàu của ông vừa cập bến Thuận An ngày 17.5.1821 thì vua Gia Long đã qua đời hơn một năm rồi, con là hoàng thái tử Đảm đã đăng quang với niên hiệu Minh Mạng.

Xin nhắc lại chút chi tiết: khi Vannier cùng nhiều cựu sĩ quan, viên chức Pháp đến Đại Việt lần đầu (1789) thì vua Minh Mạng chưa ra đời, còn khi Chaigneau đến (1793), nhà vua lúc ấy cũng chỉ mới 2 tuổi (ông sinh năm 1791). Phải chăng sự cách biệt tuổi tác và những cơ hội tiếp xúc không nhiều đã khiến mối quan hệ giữa hai quan lại người Pháp này với tân quân Minh Mạng không được gắn bó như với vua Gia Long. Hậu quả là càng ngày Chaigneau và Vannier càng cảm thấy sự hiện diện của họ tại triều đình Huế là không còn cần thiết và sự trở về Pháp vĩnh viễn của họ vào năm 1824 là một hệ quả có thể thấy trước được.

Dù sao, khi vừa trở lại Huế, một trong những việc cấp bách đầu tiên mà Chaigneau phải làm là trình quốc thư cùng những tặng vật của hoàng đế Pháp Louis XVIII gửi cho hoàng đế Việt Nam (vua Gia Long)

Buổi tiếp kiến sơ khởi diễn ra tại điện Cần Chánh, vua Minh Mạng bề ngoài tỏ ra vui mừng gặp lại một quan lại cũ của tiên đế, song bên trong là vẻ lạnh lùng giữa những người không có mối quan hệ mật thiết nào. Chaigneau không lạ gì thái độ đó, ông tâu trình qua về cương vị mới của mình và xin vua Minh Mạng định ngày chính thức tiếp nhận quốc thư và tặng vật của hoàng đế Pháp.

Lễ tiếp nhận quốc thư diễn ra không lâu sau đó. Theo nghi thức lúc bấy giờ, bức quốc thư được đặt trên một cái khay gỗ chạm trỗ công phu, tất cả được phủ bằng một vuông vải màu vàng. Viên quan phụ trách nghi lễ bưng khay đứng giữa, có hai lính hầu cầm lọng vàng đứng hai bên. Tặng vật đặt trên những chiếc bàn, mỗi chiếc có bốn người khiêng và một người che lọng theo sau. Đồ vật gồm có:

- Một đồng hồ quả lắc to mạ vàng

- Hai bộ đèn nến mạ vàng.

- Hai chiếc bình bằng đồng mạ vàng

- 16 bức tranh miêu tả những trận đánh của quân đội Pháp.

- Một khẩu súng sử dụng pít-tông (piston), đựng trong một chiếc hộp.

- Một cặp súng ngắn, cũng đựng trong hộp.

- Một tấm gương soi to.

Khi buổi lễ bắt đầu, Chaigneau đi phía sau viên quan bưng khay đựng quốc thư, sau ông là những bàn để tặng vật. Khi mọi người tới cửa điện, Chaigneau đích thân nhận lấy khay và tiến lên, đặt nó trước mặt vua Minh Mạng. Nhà vua cầm lấy quốc thư với vẻ trang trọng và tỏ ý hài lòng về những tặng vật của vua Louis XVIII. Ông bóc niêm lá thư viết bằng chữ Pháp, đưa nó cho Chaigneau, yêu cầu viên quan Pháp dịch cho mình nghe. Bức thư đề ngày 12.10.1820, có đoạn viết :” ….chúng tôi cảm thấy rất hài lòng khi được biết rằng Ngài đã tiếp đãi ân cần những người Pháp đến đất nước Ngài để buôn bán. Sự cư xử đó đối với họ là bằng chứng cho thấy rằng Ngài vẫn còn gìn giữ kỷ niệm về tình thân hữu đã qua giữa các hoàng đế Pháp và Việt Nam… Chúng tôi xét thấy cần bổ nhiệm bên cạnh Ngài người đại diện của chúng tôi là ông J.B. Chaigneau, sĩ quan hải quân của chúng tôi và là quan lại của Ngài…Chúng tôi tin rằng Ngài sẵn lòng lắng nghe những lời thỉnh cầu được đạo đạt đến Ngài của thần dân của tôi, hoặc liên quan đến việc buôn bán của họ, hoặc về bất cứ mục tiêu nào khác…..”

Trên thực tế, người được đề cập đến trong bức thư này là vua Gia Long chứ không phải vua Minh Mạng, vì như trên đã nói, mãi đến khi cập bến Việt Nam vào tháng 5. 1821, Chaigneau mới được tin về cái chết của vua Gia Long. Dù có biết điều ấy hay không, vua Minh Mạng cũng chăm chú lắng nghe.

Sau khi Chaigneau dịch xong bức thư, nhà vua đã nói:”….Trẫm cũng có những tình cảm như vua nước Pháp, chúng ta muốn luôn là bạn tốt của Ngài; nhưng một thỏa ước thương mại để làm gì? Nước Pháp ở quá xa vương quốc của Trẫm nên thần dân của Trẫm làm sao có thể qua lại buôn bán với đồng bào của các ông được. Chúng ta bị ngăn cách bởi nhiều biển cả và chúng tôi không có tàu bè nào đủ khả năng vượt biển. Nếu người Pháp muốn đến đây buôn bán, chúng tôi sẽ đón tiếp họ như với thần dân của những nước khác, miễn là họ tuân thủ luật pháp và phong tục bản xứ”. 

Rõ ràng cách nói đó không biểu thị một tình cảm đặc biệt nào đối với những người Pháp đang sinh sống và buôn bán ở Việt Nam. Chaigneau phát biểu mấy câu chiếu lệ và sau buổi lễ ấy, ông ra về với một tâm trạng nặng nề. Ông nhận thấy dáng vẻ lạnh lùng, buồn bã của nhà vua rất trái ngược với sự cởi mở, ân cần của vua Gia Long trước đây. Tuy nhiên, với tư cách mới là người đại diện của chính phủ Pháp bên cạnh triều đình Việt Nam, ông không được phép để cho những cảm nghĩ đó ảnh hưởng đến nhiệm vụ nặng nề của mình.

Trong một cuộc tiếp kiến khác, vua Minh Mạng tỏ ý muốn gặp người con cả của Chaigneau, tức Michel Đức Chaigneau, mà trước khi vua Gia Long mất, ông có gặp đôi lần. Nhân một dịp lễ, nhà vua gửi cho Đức một chiếc hộp trong đựng một cái quần dài bằng nhiễu đỏ, một chiếc áo dài bằng sa-tanh màu xanh, lót lụa vàng. Mấy ngày sau, một viên quan đến nhà thông báo là nhà vua đang chờ tiếp kiến Đức. Michel Đức vội vã thông báo tin này cho cha rồi mặc bộ quần áo đẹp nhất, thắng ngựa ra đi (lúc bấy giờ Đức đã 18 tuổi).

Không lâu sau, ông đến cửa Tịnh Tâm, đã thấy viên quan truyền lệnh tới đó trước rồi. Ông ta hướng dẫn Đức vào cung, sau khi đi qua một chiếc cầu và một khoảnh sân. Theo Đức, ở Việt Nam không giống như ở châu Âu, người ta không có thói quen xướng danh người đến yết kiến hay thăm viếng ai. Cũng vì thế, khi Đức vừa lặng lẽ bước qua cửa là đã thấy vua Minh Mạng đứng chờ sẵn ở đó. Nhà vua reo lên một tiếng “A..” rồi đưa tay làm hiệu cho Đức đến gần.

Ngay lúc đó, một quan văn xuất hiện và theo dấu hiệu của nhà vua, ông bước đến gần Đức. Vua Minh Mạng chỉ cho cả hai ngồi xuống một chiếc bục thấp, cạnh chiếc bục ông ngồi. Ông tựa cùi tay vào một chiếc gối vuông bọc nhung màu vàng. Trước mặt ông, nhiều bức tranh xếp chồng lên nhau. Ông lên tiếng hỏi Đức về ý nghĩa những từ in bên dưới tranh, nhưng trước hết ông muốn chàng trai đọc to lên từng từ một để ông biết tiếng Pháp đọc nghe ra sao.

Đức đang đọc nửa chừng thì nhà vua ngắt lời. Ông nói:” Một ngôn ngữ đặc biệt. Nghe hơi giống tiếng Tàu”. Kế đó, ông muốn Đức nói lên nghĩa của mỗi từ trước khi giải thích nghĩa chung của từng câu. Ông đặt ngón tay lên từng từ một, sợ rằng Đức sẽ bỏ qua bớt. Đức thú thực là công việc này không dễ dàng, vì ở một số từ tiếng Pháp, khó tìm ra từ tiếng Việt tương ứng để giải thích.

Tuy nhiên, nhờ ở cách nói vòng, Đức cũng tạm làm cho vua Minh Mạng hài lòng. Ông mỉm cười trước nỗ lực của chàng trai có dòng máu lai Pháp-Việt cố tìm cách làm cho ông hiểu được từng từ ngữ một. Mỗi khi một câu tiếng Pháp được dịch xong, vị quan văn lấy quản bút viết chữ Hán lên một mảnh giấy. Nhưng khi một danh từ riêng xuất hiện, ông dừng tay lại, đưa mắt khi thì nhìn sang nhà vua, khi thì nhìn sang Đức, nhờ đọc lại từ đó. Đáng tiếc là có một số danh từ tiếng Pháp, ông không biết dùng ký hiệu nào để mô tả cách đọc. Thường thì nhà vua giúp ông ta vượt qua khó khăn bằng cách đọc cho ông viết một từ nào đó phù hợp nhất.

Nhưng cách đọc của hai người nhiều khi làm cho Đức cũng buồn cười, như với tên thống chế Soult, họ âm là Xou-lé; còn tên tướng Kléber, họ âm là Ké-lé-bé !

Mỗi lần Michel Đức dừng lại, vua Minh Mạng vừa nhai trầu, vừa hút thuốc, đặt ra nhiều câu hỏi, khi thì về những cuộc chiến tranh mà hoàng đế Napoléon (ông đọc là Na-pho-lé-ông) đã gây ra để chống lại phần lớn châu Âu (điều này làm ông thích thú lắm); khi thì về đồng phục và dáng vẻ của quân đội Pháp, một điều mà Đức cũng chỉ hiểu biết sơ sài.

Cuộc hội kiến kéo dài gần hai tiếng đồng hồ, nhà vua cảm thấy đã khá đủ, ông đứng dậy bước đi. Viên quan cùng Michel Đức cũng đứng lên và đi ra cửa. Đến phòng chờ bên ngoài, viên quan nhìn Đức với một dáng vẻ nửa cười cợt, nửa nghiêm túc:” À, này chàng trai, cậu có còn tỉnh táo không mà dám nói với Hoàng thượng là quân đội của Ngài không sánh được với quân đội Pha-lan-cha (Pha-lang-sa, âm từ chữ France: Pháp – LN), rồi những cung điện nguy nga của Ngài không bằng nhà cửa ở châu Âu?”. Đức trả lời rằng đó là sự thực, làm sao dám dối trá với nhà vua. Nhưng viên quan đã nói:” Ồ, cần phải nói dối để làm vui lòng hoàng thượng”. Nói xong, ông ta nắm tay Đức chào tạm biệt.

Lê Nguyễn - 22.11.2020

Cùng danh mục

 
Tư vấn ngay