Liên bang Xô Viết là một quốc gia vĩ đại đã đập tan chủ nghĩa phát xít, đem ánh sáng của chủ nghĩa Marxist soi chiếu khắp năm châu. Liên Xô từng là một cường quốc cân bằng hòa bình thế giới và có nền kinh tế hùng mạnh. Thế nhưng có một điều ít người ở Việt Nam ngờ đến là trong suốt hàng chục năm, Liên Xô từng phải nhập khẩu hàng chục triệu tấn lương thực từ Mỹ để nuôi sống chính người dân của mình. Điều gì đã dẫn đến việc này?
Vào đầu thế kỷ 20, nước Nga Sa hoàng là quốc gia xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới. Sau khi nước Nga sụp đổ và Liên Xô thành lập, những người cộng sản đã giết hại và bỏ tù hàng triệu người, trong đó có nhiều nông dân sản xuất hiệu quả nhất và cũng khá giả nhất (mà họ gọi là bọn Kulak) như một phần của nỗ lực thiết lập hệ thống canh tác tập thể.
Bắt đầu từ năm 1927, quá trình tập thể hóa nhằm mục đích hợp nhất đất đai và lao động của từng nông dân vào các trang trại tập thể, được gọi là “kolkhoz”. Công nhân ở đó không có lương, thay vào đó họ được chia một phần của những gì kolkhoz tạo ra chỉ phục vụ nhu cầu của bản thân và gia đình họ, không hơn thế, còn lại nhà nước tịch thu hết. Ban lãnh đạo Liên Xô hy vọng quá trình tập thể hóa sẽ làm tăng đáng kể nguồn cung cấp lương thực cho người dân thành thị.
Điều đó cực kỳ quan trọng kể từ khi quá trình công nghiệp hóa được khởi xướng. Nhiều công nhân hơn tại các nhà máy và xí nghiệp có nghĩa là nhu cầu thực phẩm nhiều hơn. Kolkhoz được dự định trở thành một cột mốc quan trọng trong hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Liên Xô: các cộng đồng lao động làm việc cùng nhau trong niềm hạnh phúc và hòa hợp hoàn toàn vì lợi ích của cả một quốc gia khổng lồ. Tuy nhiên, thực tế lại không vui vẻ như vậy. Việc cưỡng chế tịch thu thịt và bánh mì đã dẫn đến những điều đáng tiếc cho nông dân. Họ thậm chí còn muốn giết mổ gia súc của mình hơn là giao cho các trang trại tập thể. Đôi khi chính phủ Liên Xô phải đưa quân đội vào để trấn áp các cuộc nổi dậy.
Các trang trại tập thể là sáng kiến của Stalin. Công việc thực hiện thường được đánh giá không phải bằng tiền hoặc hiệu quả công việc mà bằng thời gian để thực hiện công việc đó (ngày công)
Những người nông dân thường quan tâm đến thành quả lao động của họ, nhưng tại các kolkhoz, họ mất hết ý thức chủ động. Cho đến những năm 1970, một nông dân ở kolkhoz - gọi là kolkhoznik - không có quyền lấy hộ chiếu. Không có nó, một nông dân không thể chuyển đến thành phố và chính thức bị ràng buộc với kolkhoz của mình suốt đời và được một số người mô tả là hệ thống "chế độ tân nông nô".
Cho đến giữa những năm 1930, Liên Xô đã xuất khẩu hàng triệu tấn ngũ cốc mỗi năm nhưng đến những năm 1970, họ cuối cùng lại phải nhập khẩu ngũ cốc trở lại. Năm 1963-64, Liên Xô lần đầu tiên sau Thế chiến II ký một hợp đồng lớn để mua ngũ cốc ở Hoa Kỳ, và đến năm 1972 Moskva đã trở thành khách hàng thường xuyên với số lượng nhập khẩu ngày càng tăng. Có một thực tế là cho đến năm 1980 Liên Xô sản xuất ngũ cốc nhiều hơn 69% so với thời điểm đó (trung bình 5 năm 1976-1980 so với 1956-60), trong khi dân số của nó năm 1980 chỉ nhiều hơn 23% so với năm 1960. Thế nhưng nó vẫn tiếp tục phải nhập khẩu với số lượng ngày càng tăng.
Tại sao Liên Xô không thể tự nuôi sống được người dân của mình? Liên Xô có hơn 300 triệu mẫu đất trồng ngũ cốc nhưng lại không đủ cho 260 triệu người dân trong khi trên diện tích canh tác vỏn vẹn 7,5 triệu mẫu Anh đủ lúa nuôi sống 110 triệu người Nhật, 350 triệu mẫu Anh đất đai gieo trồng đủ nuôi sống 660 triệu người Ấn Độ còn Trung Quốc dù bị thúc đẩy bởi dân số hơn một tỷ nhưng đã không tăng nhập khẩu lương thực tương ứng trong 10 năm. Bản thân nước Mỹ với khoảng 390 triệu mẫu Anh đất đai đã có thể nuôi sống người dân của mình và cũng dư thừa để xuất khẩu sang nuôi người dân của thiên đường Xô Viết. Trung bình một lao động trong nông nghiệp ở Mỹ làm ra lượng lương thực có thể nuôi được hơn 70 người trong những năm 70 – 80 và hơn 150 người ngày nay.
Tranh vẽ tuyên truyền cổ động mô tả người nông dân hạnh phúc trong các nông trang tập thể kolkhoz năm 1947
Hơn 500 tỷ USD đã được Liên Xô bơm vào nông nghiệp trong 15 năm (1965 - 1980) nhưng nó vẫn là một mớ hỗn độn. Năm 1979, thu hoạch ngũ cốc đạt 179 triệu tấn thấp hơn nhiều so với mức 222 triệu tấn mà người Nga sản xuất hồi năm 1973-1974 và họ phải nhập khẩu hơn 30 triệu tấn, nhiều hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia nào khác. Ngay cả Ấn Độ, trong những năm gió mùa tồi tệ 1966 và 1967 cũng chỉ phải nhập khẩu 10 triệu tấn mỗi năm.
Có gì sai với nền nông nghiệp Liên Xô? Tuy hầu hết lãnh thổ Liên Xô có lượng mưa thấp và vụ mùa phát triển ngắn nhưng hầu hết các chuyên gia đều cho rằng tình trạng của Nga có thể được khắc phục bằng khoa học. Liên Xô có một số công nghệ nông nghiệp mới nhất, chẳng hạn như máy kéo, máy liên hợp và phân bón nhưng một hệ thống quản lý cồng kềnh và thiếu linh hoạt đã cản trở nỗ lực đưa thiết bị đến đúng nơi, đúng thời hạn. Khái niệm của Lenin về một đảng duy nhất thống trị mọi mặt của đời sống ở Liên Xô đã dẫn đến tình trạng bộ máy hành chính cồng kềnh, trì trệ.
Những năm 1960, Liên Xô vẫn có thể tự nuôi sống chính mình nhưng vào giữa những năm 1970, nhập khẩu ngũ cốc đã tăng lên 9 triệu tấn một năm, sau đó là 20 triệu tấn và đến năm 1980 cần hơn 30 triệu.
Một nhóm nông dân Mỹ trẻ tuổi mới trở về Washington sau khi sống trong các trang trại tập thể của Liên Xô trong một chương trình trao đổi văn hóa. Những người Mỹ này đã rất ngạc nhiên khi thấy những người nông dân Liên Xô rời khỏi máy kéo của họ ngay lúc 5 giờ chiều, bất kể việc gieo trồng đang bị chậm nhiều tuần so với kế hoạch hoặc vụ thu hoạch sắp bị phá hoại bởi một cơn bão sắp tới. Người lao động Liên Xô trong các nông trang tập thể do nhà nước quản lý không quan tâm đến hiệu quả công việc của họ, điều sẽ không bao giờ xảy ra trong các trang trại tư nhân của Mỹ ở Kansas hoặc Iowa.
Nhà triết học người Hy Lạp Aristotle cho rằng cần có sự kích thích của lợi ích để thúc đẩy con người làm những công việc khó khăn và chủ nghĩa cộng sản không hoạt động hiệu quả vì nó không cung cấp động cơ cho những người có khả năng lao động vượt trội.
Các nông trang tập thể gặp khó khăn sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Vladimir Mishurov, 48 tuổi, chủ trang trại ở Otradnaya, nói: “Không ai chịu trách nhiệm...Họ không thể thích ứng với nền kinh tế thị trường. Họ đã quen với việc làm theo những chỉ dẫn một cách thiếu suy nghĩ ”.
Vladimir Mishurov đã biến tàn tích của trang trại tập thể “Con đường của Lenin” ở ngôi làng này thành một công việc kinh doanh có lợi nhuận. Trong khoảng hơn một thập kỷ qua, ông Mishurov đã thay thế thiết bị cũ kỹ của Nga bằng hàng chục máy móc công nghệ cao của hãng John Deere (Mỹ) và các nhà sản xuất khác, đồng thời bắt đầu sử dụng phân bón và hạt giống mới. Ông mua và thuê thêm nhiều đất đai từ hàng xóm và gia đình và cũng như nhiều nông dân ở Mỹ, Mishurov thường làm việc liên tục trong những ngày cuối tuần và ít khi nào ngủ, đặc biệt là trong mùa gặt.
Andrei Burdin, một nông dân 45 tuổi từ một ngôi làng gần đó và đang làm việc trên mảnh đất từng là một phần của trang trại tập thể “Bình minh của Chủ nghĩa Cộng sản” cho biết lúc đầu, ông mua thiết bị của Nga, nhưng sau đó đã nâng cấp lên máy kéo và máy liên hợp John Deere, mà người Nga gọi là zelyonaya tekhnika. Ông Burdin cho biết ông đã thử nghiệm một tổ hợp John Deere với một tổ hợp của Nga và thấy rằng nó tạo ra nhiều hơn 1/3 lượng ngũ cốc từ cùng một khu vực. Ông cũng bổ sung thêm một máy trồng cây từ Vaderstad AB của Thụy Điển có thể gieo hạt xuống đất ở độ sâu và khoảng thời gian tối ưu, cải thiện năng suất. Giờ đây, ông sở hữu trang trại rộng khoảng 3.700 mẫu Anh.
Nước Nga đã xuất khẩu hơn 40 triệu tấn lúa mì trong năm 2018, là mức cao nhất đối với bất kỳ quốc gia nào trong một phần tư thế kỷ qua. Nga đã vượt Mỹ trở thành nhà xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới vào năm 2016 và một lần nữa đánh bại Mỹ vào năm 2018. Xuất khẩu nông nghiệp, đạt 20,7 tỷ USD vào năm 2017, đã vượt qua ngành công nghiệp vũ khí để trở thành ngành thu nhập số 2 của Nga. Sự gia tăng xuất khẩu nông nghiệp của Nga, bao gồm ngũ cốc, cá và thịt, là một phần trong nỗ lực đa dạng hóa nền kinh tế khỏi dầu thô. Dầu mỏ và khí đốt tự nhiên xuất khẩu đã từng có thời gian đóng góp tới 77% thu ngân sách liên bang nhưng hiện chỉ chiếm khoảng 40%.
“Với việc giá dầu giảm, ngũ cốc đã được ưu tiên. Ngũ cốc là dầu của chúng tôi” - Bộ trưởng Nông nghiệp khi đó là Aleksandr Tkachev cho biết vào năm 2016.
Võ Quỳnh