Lưu Vĩnh Phúc trong lịch sử thời kỳ đầu kháng Pháp (P3)

Phải khách quan thừa nhận rằng trong hai trận đánh ở Ô Cầu giấy năm 1873 và năm 1883, có công lao rất lớn của quân Cờ Đen.Tổ chức này đã chuyển mình từ những thổ phỉ trong thời gian đầu mới trốn

Phải khách quan thừa nhận rằng trong hai trận đánh ở Ô Cầu giấy năm 1873 và năm 1883, có công lao rất lớn của quân Cờ Đen.Tổ chức này đã chuyển mình từ những thổ phỉ trong thời gian đầu mới trốn sang Việt Nam thành một đội quân tinh nhuệ dưới quyền điều động của quan binh Việt Nam và đã làm quân Pháp lắm phen mất ăn mất ngủ. Từ thời điểm này, mọi nghi ngờ của vua Tự Đức và triều thần đối với Lưu Vĩnh Phúc đã tan biến hẳn. Sau khi đạo quân Cờ Đen của họ Lưu loại trừ được viên đại tá Pháp Henri Rivière, “ Tin thắng trận tâu lên. Vua mừng lắm, thưởng Vĩnh Phúc thăng thụ Đề đốc, cho mũ áo Chánh nhị phẩm (ngang Tổng đốc, Thương thư – LN), gia thưởng một cái kim bài có chữ ‘trung dũng’…”

Chẳng những thế, các thuộc tướng của họ Lưu có công trong trận đánh này cũng được khen thưởng thích đáng, “Hoàng Thủ Trung, Tuyên úy Đồng tri tòng lục phẩm, thăng thụ Tuyên úy sứ (tòng tứ), (tức thăng luôn 4 trật-LN), lĩnh chức Lãnh binh, gia thưởng một cái kim bài bằng vàng tía có chữ “thưởng công”; Ngô Phượng Điển (Phòng ngự đồng tri-tòng lục phẩm) thăng thụ Tuyên úy Phó sứ, lĩnh chức Phó Lãnh binh, trích bạc lạng, sâm quế cấp cho để điều trị, gia thưởng 1.000 lạng bạc, lại thưởng chung cho quân đi đánh trận ấy 2.000 quan tiền … Dương Trứ Ấn (tòng bách phẩm bá hộ), chết trận, được truy thụ Tuyên úy Phó sứ gia tặng hàm Phó lãnh binh, còn thì đều tặng hàm và cho tiền tuất có cấp bậc…” (hết trích) (Đại Nam thực lục – Tập 8 – sđd, trang 570).

Các chi tiết trên trong Đại Nam thực lục chứng tỏ rằng đạo quân Cờ Đen dưới quyền Lưu Vĩnh Phúc đã được chính qui hóa. Không chỉ riêng ông mà các thuộc tướng của ông đều đã được phong quan chức như các quan lại triều đình. Không lâu sau, nhà vua lại ban cho họ Lưu tước Nghĩa Lương nam. Tuy nhiên, đúng 2 tháng sau sự kiện tiêu diệt H. Rivière, ngày 19.7.1883, vua Tự Đức qua đời, việc triều chính bắt đầu rối nát do sự phân hóa trong hàng ngũ triều thần và sự lộng quyền của hai Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Người được vua Tự Đức chỉ định kế vị là ông hoàng Dục Đức chỉ ở ngôi mấy ngày, chưa kịp làm lễ tấn tôn; người kế vị tiếp theo là vua Hiệp Hòa cũng bị bức tử sau 4 tháng làm vua (30.7.1883 – 29.11.1883).

Trong thời gian vua Hiệp Hòa còn tại vị, ngày 25.8.1883, hai phía Việt-Pháp đã ký Hòa ước Quý Mùi (còn gọi là Hòa ước Harmand, theo tên viên chức đại diện phía Pháp). Hòa ước có 27 khoản, đặc biệt khoản 23 ghi rõ “…Nước Pháp sẽ một mình mang lấy trách nhiệm đuổi quân Cờ đen ra khỏi Bắc Kỳ và dùng các biện pháp để bảo đảm an ninh và tự do trên sông Hồng Hà” (Nguyễn Phương – 82 năm Việt sử 1802-1884 – Đại học sư phạm Huế 1963, trang 215). Điều này cho thấy thực dân Pháp kiêng dè quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến mức nào! Song, việc triều đình Huế đặt bút ký hòa ước có điều khoản trên có nghĩa là họ mặc nhiên chấp nhận từ bỏ việc sử dụng quân Cờ Đen như một lực lượng cơ hữu của mình.

Họ không thể công khai điều động lực lượng này, và cũng giống như trường hợp hòa ước Nhâm Tuất 1862 và sự tồn tại của tổ chức kháng chiến Trương Định, triều đình tiếp tục âm thầm nuôi dưỡng và hỗ trợ đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc. Một năm sau, ngày 6.6.1884, hai phía Việt-Pháp lại ký Hòa ước Giáp Thân, mở đường cho việc thuộc địa hóa toàn diện đất nước Việt Nam. Hòa ước này không nhắc đích danh quân Cờ Đen, song điều thứ 15 cũng ghi rõ là quân Pháp được đóng binh ở bất cứ nơi nào xét thấy cần (Nguyễn Phương – sđd – trang 220). Trong thời gian này, những cuộc đụng độ trực tiếp giữa quân Pháp và các lực lượng chính quy do nhà Thanh phái đến (nhằm phối hợp với triều đình Việt Nam trong việc tiễu phỉ) trở nên ngày một nghiêm trọng. Còn tiếp...

Cuộc xung đột Pháp-Hoa được giải quyết bước đầu bằng hòa ước Fournier ngày 11.5.1884 chỉ bao gồm 5 điều khoản ngắn ngủi, không đủ để đảm bảo một sự hòa giải đích thực. Các trận đánh lớn tiếp tục nổ ra, dẫn đến việc Pháp đánh chiếm Phúc Châu, thủ phủ của tỉnh Phúc Kiến, và bao vây đảo Đài Loan của Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là chiến tranh giữa hai phía đã được đẩy ra khỏi biên giới Việt Nam, xâm nhập vào đất Tàu. Cuối cùng, vào ngày 9.6.1885, triều đình nhà Thanh phải đồng ý ký với Pháp một hòa ước lâu dài có tên là “Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại”, gọi tắt là Hòa ước Thiên Tân, lấy tên nơi ký kết văn kiện này.

Jules Harmand, người ký hòa ước Quý Mùi 1883 với triều đình Huế.

Ngay điều khoản thứ nhất của hòa ước này đã ghi rõ là Pháp giành quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để giải tán hay tống xuất các băng nhóm cướp bóc để đảm bào sự trị an. Về phần mình, nhà Thanh cam kết giải tán và trục xuất các băng nhóm đang trú ẩn ở các biên giới giáp với Việt Nam, không được gửi quân qua biên giới với Việt Nam … (Ch. Gosselin – L’Empire d’Annam – Paris 1904, trang 539-541). Điều này có nghĩa là nhà Thanh phải từ bỏ mọi sự hỗ trợ hay hợp sức với đạo quân Cờ Đen trong việc chống Pháp. Thêm vào đó, ngay trong lúc vua Hàm Nghi còn tại vị, triều đình Huế đã bị buộc phải thu hồi mọi chức tước đã ban bố cho Lưu Vĩnh Phúc (Bradley Camp Davis – Imperial Bandits – University of Washington Press – 2017, trang 126).

Như vậy từ năm 1885, đạo quân Cờ Đen trở thành một tổ chức bất hợp pháp và Lưu Vĩnh Phúc từ một viên quan vào hàng chánh nhị phẩm của triều đình Huế đã sớm trở thành một kẻ bị chối bỏ. Tuy nhiên, con người đó vẫn không thối chí, ông ta quay về Quảng Châu, Trung Quốc, thực hiện mênh lệnh của vua Quang Tự, đóng góp thêm nhiều công trạng cho nhà Thanh, và đáng nói hơn nữa, ông trở thành chỗ tựa của nhiều nhà cách mạng Việt Nam khi hoạt động trên đất Trung Quốc. Còn tiếp...

Nguồn: Lê Nguyễn

Bài viết liên quan

Cùng danh mục

 
Tư vấn ngay