Tháng 11.1873, một sĩ quan Pháp là Đại úy Francis Garnier (sử Việt gọi là An Nghiệp hay Ngạc Nhi) được cử ra Bắc với danh nghĩa bề ngoài là dàn xếp những rắc rối do tên lái buôn Jean Dupuis (Đồ Phồ Nghĩa) gây ra, kỳ thực nhằm thực hiện ý đồ tấn công thành Hà Nội, mở đường cho việc đánh chiếm các tỉnh miền Bắc. Ngày 20.11.1873, Garnier ra lệnh tấn công thẳng vào thành Hà Nội, quân triều đình dưới sự chỉ huy của Khâm mạng đại thần NguyễnTri Phương chống trả quyết liệt, song trận chiến cũng sớm kết thúc trong ngày. Thiệt hại về phía Việt Nam khá nặng nề: cụ Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và mất sau đó, con trai cụ là phò mã Nguyễn Lâm tử trận.
Thiệt hại của phía Pháp không đáng kể, và điều này cho thấy thực lực về quân sự giữa hai bên có sự chênh lệch quá lớn. Tuy nhiên, có một điều mà thực dân Pháp đã không ngờ tới. Hơn một tháng sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, ngày chủ nhật 21.12.1873, Francis Garnier dẫn một toán lính Pháp 12 người truy đuổi một nhóm quân Cờ Đen khiêu khích và chạy trốn tại khu vực Ô Cầu giấy thuộc phủ Hoài Đức. Không ngờ ông ta lọt vào ổ phục kích của địch. Garnier té vào một hố sâu đào sẵn, trong khi lính Cờ Đen ào tới. Ông ta rút cây súng lục bắn đến viên đạn cuối cùng, rồi chịu chết.
Ngay lập tức, đầu của Garnier bị quân Cờ Đen cắt rời và mang đi (Francis Garnier – Sa vie, ses voyages …- Édouard Petit – Paris 1894, trang 263-267) Cái chết của viên sĩ quan từng lập nhiều công trạng này gây chấn động cả nước Pháp. Hàng chục năm sau, nhiều tượng đài, công trình tưởng niệm Francis Garnier được xây dựng trên khắp Đông Dương, và cả trên đất Pháp. Điều đó chứng tỏ sự tổn thất về nhân sự của Pháp là rất to lớn. Cùng tử trận với Garnier còn có một trung úy và một thiếu úy Pháp nữa (ĐNTL – Tập 7 – sđd – trang 1422) Chiến công này của quân Cờ Đen dưới quyền Lưu Vĩnh Phúc đã giải tỏa phần lớn mối nghi ngờ của vua Tự Đức và triều thần đối với họ Lưu.
Tháng 2 AL 1874, vua Tự Đức “chuẩn cho Lưu Vĩnh Phúc được nhắc bổ làm Phó Lãnh binh quân thứ ấy. Đoàn quân ấy từ quản đội trở xuống thưởng cho thăng 3 trật và thưởng tất cả binh dõng đi trận ấy bạc lạng và tiền (bạc 345 lạng, tiền 3.000 quan), là xét công đánh trận ở Cầu Giấy” (Đại Nam thực lục –Tập 8 – NXB Giáo dục – Hà Nội 2007, trang 18). Với chức danh Phó lãnh binh, hàm tòng tam phẩm, từ thời điểm này, Lưu Vĩnh Phúc đã chính thức trở thành một quan lại trung cao cấp của triều đình Huế. Điều trớ trêu là cái chết gây chấn động của Francis Garnier lại xảy ra trong lúc Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Tường, đại diện triều đình, và Đại úy hải quân Philastre (sử Việt chép là Hoắc Đạo Sanh hay Phi Lặc), đại diện phía Pháp, đang trên đường ra Hà Nội để dàn xếp mọi việc.
Đại úy Pháp Francis Garnier (1839-1873)
Nghe được tin này, Philastre giận dữ, vỗ bàn và đùng đùng đòi quay trở lại. Trước thái độ của viên quan Pháp, Nguyễn Văn Tường đã trổ tài biện luận sắc bén của ông để thuyết phục y. Ông thong thả nói rằng “…trả lại thành (Hà Nội) để sớm định điều ước, là lệnh của quý tướng (tướng Dupré – LN); lấy lại thành rồi sau mới nghị hòa là mệnh lệnh của vua nước tôi; bọn chúng ta chỉ biết theo mệnh lệnh ấy. Còn như Hà Nội giết An Nghiệp (tức F. Garnier – LN), cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương, đó đều là do sự không ngờ, cũng không phải là bọn chúng ta làm ra … sao bằng đưa thư ngay cho Hà Nội … hoặc được hỏi rõ duyên do An Nghiệp bị chết, rồi sau sẽ báo, há chẳng càng ổn ư” (Đại Nam thực lục – Tập 7 – sđd – trang 1425).
Lý lẽ của ông Tường khiến Philastre dịu lại và đồng ý tiếp tục hành trình… (Ghi chú (1) - Về cương vị của cụ Nguyễn Tri Phương trong trận đánh thành Hà Nội tháng 11.1873, xin nhắc lại một ngộ nhận vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay, đó là phong cụ làm “Tổng đốc thành Hà Nội”. Trên thực tế, trong lịch sử nhà Nguyễn, không hề có chức “Tổng đốc thành”, chỉ có chức “Đề đốc thành”, hàm nhị phẩm, ở những tỉnh lớn, còn tỉnh nhỏ thì Lãnh binh (tam phẩm) phụ trách việc binh bị trong tỉnh. Khi chỉ huy việc chống lại cuộc tấn công của Pháp tại thành Hà Nội năm 1873, cụ Nguyễn Tri Phương là Khâm mạng Tuyên sát Đổng sức đại thần, thay mặt nhà vua, chỉ huy quân sự toàn miền Bắc, còn Tổng đốc tỉnh Hà Nội là Bùi Thức Kiên).
Nhờ tài biện giải khéo của Nguyễn Văn Tường, sự đổ vỡ đã không xảy ra, ông và Philastre tiếp tục hành trình ra Bắc để theo dõi tình hình tại chỗ. Cuối cùng hòa ước Giáp Tuất 1874 ra đời, chủ yếu nhằm chính thức hóa một thực tế đã diễn ra từ năm 1867, đó là công nhận quyền kiểm soát của Pháp trên toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh. Mặt khác, Pháp trả lại các thành trì đã chiếm đóng tại miền Bắc và được tự do thông thương trên thủy lộ sông Hồng. Vào lúc này, đạo quân Cờ Đen dưới quyền Phó lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc tiếp tục truy kích đạo quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh. Tháng 8 AL 1874, họ Lưu được nhà vua thăng Lãnh binh, hàm chánh tam phẩm.
Đại tá Pháp Henri Rivière (1827-1883)
Hai tháng sau, vua y lời tâu của Thống đốc đại thần Hoàng Tá Viêm, thăng Lưu Vĩnh Phúc lên chức Phó Đề đốc, hàm tòng nhị phẩm, ngang với Tham tri (Thứ trưởng), Tuần phủ (Tỉnh trưởng tỉnh nhỏ) (Đại Nam thực lục – Tập 8 – sđd, trang 67, 77). Có thể nói vào thời điểm này, Lưu Vĩnh Phúc là cánh tay phục vụ đắc lực bậc nhất của Hoàng Tá Viêm tại nhiều tỉnh miền Bắc. Song song với việc tìm diệt đạo quân Cờ vàng, quân Cờ đen còn có những hoạt động khiến thực dân Pháp lo lắng. Họ kiểm soát dọc theo sông Hồng, dùng vũ khí ngăn chặn hay uy hiếp tinh thần nhiều người Pháp thông thương trên thủy lộ này khiến cho Soái phủ Nam kỳ rất bức xúc.
Trước tình thế đó, Thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ là Le Myre de Vilers quyết định dùng áp lực quân sự để phá thế bế tắc giữa hai bên. Ông ta cử Đại tá Henri Rivière dẫn vài trăm quân đi tàu ra Bắc vào đầu tháng 4.1882. Việc tiếp xúc giữa Rivière và các quan chức Việt Nam đứng đầu là Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu không dẫn đến kết quả mong muốn, viên Đại tá Pháp cho rằng phía Việt Nam không có thiện chí giải quyết vấn đề và quyết định tấn công thành Hà Nội vào ngày 25.4.1882. Thêm một lần nữa, chỉ sau mấy tiếng đồng hồ chiến đấu, thành lại rơi vào tay giặc. Hơn một năm sau, lịch sử lại tái diễn.
Ngày 19.5.1883, Đại tá Henri Rivière lại bị quân Cờ Đen khiêu chiến và phục kích hạ sát tại Ô Cầu giấy, nơi Đại úy Francis Garnier đã gục ngã cách đó 10 năm. Cũng như Garnier, sau khi bị tử thương tại Ô Cầu giấy, Đại tá Henri Rivière bị quân Cờ Đen cắt mất cái đầu cùng với 29 sỹ quan, binh lính Pháp, bỏ vào giỏ treo nơi công cộng cho mọi người chứng kiến và sau đó đem vùi lấp ở đâu không thấy các tài liệu lịch sử Việt Nam nói đến . Mãi về sau, người ta mới phát hiện được trong hồi ký của Bonnal, nguyên công sứ Pháp tại Hà Nội, một đoạn mô tả chi tiết quá trình khai quật đầu và thi thể của Henri Rivière.
Cầu giấy, nơi Francis Garnier và Henri Rivière bị quân Cờ Đen hạ sát vào các năm 1873 và 1883
Đoạn hồi ký này là phần phụ lục của tác phẩm Correspondance politique du commandant Rivière au Tonkin (Avril 1882 – Mai 1883) (Thư từ chính trị của viên tư lệnh Rivière tại miền Bắc, từ 4.1882 đến 5.1883) do André Masson tập hợp, chú thích và xuất bản cùng lúc tại Hà Nội và Paris năm 1933. Ngày 17.9.1883, tức gần 4 tháng sau ngày Rivière tử trận, Bonnal được lệnh chứng kiến cuộc khai quật tử thi đầu tiên với tư cách viên chức hộ tịch. Theo sự chỉ dẫn của một số giáo dân Thiên chúa giáo khu vực phủ Hoài Đức, họ đã đến làng Ké Mai thực hiện cuộc đào tìm. Chỉ sau vài nhát cuốc, họ phát hiện một chiếc hộp bằng cây sơn đen tình trạng còn tốt.
Viên bác sĩ Masse trong đoàn khai quật đã tự tay bật nắp chiếc hộp và những người chứng kiến nhìn thấy giữa lớp đất sét đỏ là một chiếc đầu người đã thối rữa một phần thịt. Căn cứ vào những lọn tóc dài đã ngã màu hoa râm ( H. Rivière chết năm 56 tuổi). Họ nhận ra đúng là chiếc đầu của Rivière. Trong hộp cây, còn có những đốt xương bàn tay, chứng tỏ 2 bàn tay của Rivière cũng bị chặt đứt, bỏ chung với đầu lâu . Sau đó, đoàn khai quật moi tìm từ lớp sình của một khu ruộng, tìm được 28 chiếc đầu lâu khác đã bị quân Cờ Đen vứt đi sau thời gian trưng bày. 20 ngày sau, Bonnal tiếp tục cho tìm thi thể còn lại của H. Rivière.
Trong biên bản ngày 8.10.1883, ông ta mô tả khá tỉ mỉ kết quả khai quật và một dấu hiệu cho phép khẳng định đã tìm được thi thể của Riviere, đó là 2 chữ H.R. thêu trên tấm vải che ngực và những cánh tay đã bị cắt mất bàn tay. Tất cả được cho vào một chiếc quan tài bằng cây rất dày, phủ vôi bột và chở về Hà Nội (Correspondance …- sđd, trang 261-264). Sau một buổi lễ được tổ chức tại nhà thờ tạm của đoàn truyền giáo Pháp tại Hà Nội, đầu cùng thi thể còn lại của H. Rivière và của các sĩ quan, binh sĩ dưới quyền được cải táng ở nghĩa trang dành cho người Pháp ở thành phố này. Còn tiếp...
Nguồn: Lê Nguyễn