Vào thập niên 90, Kpop từng chứng kiến một sự kiện copy mang tính quy mô lớn trong lịch sử. Sự phổ biến của việc đạo nhạc được thực hiện một cách bí mật bởi nhiều nhà soạn nhạc và các nhà sản xuất. Chuyện này được khui ra sau scandal của Roora, một nhóm nhạc dance nổi tiếng vào giai đoạn này. Ca khúc "Chun Sang Yoo Ae" (Tình yêu trên thiên đàng) của họ bị người nghe và các nhà phê bình âm nhạc chỉ trích khi nghe y chang "Omatsuri Ninja" (Lễ hội ninja) của nhóm nhạc Ninja bên Nhật.
Kết quả là toàn bộ sản phẩm liên quan đến ca khúc bị thu hồi và tạo ra một cuộc tranh luận lớn. Scandal này đã khiến các nhà báo và nhà phê bình âm nhạc bắt đầu điều tra toàn bộ các nghệ sĩ thuộc thế hệ New Dance. Đến năm 1996, KMRB (Ban đánh giá phương tiện truyền thông Hàn Quốc) đã công bố danh sách 22 ca khúc bị cấm vì đạo nhạc Nhật.

Đây là một con số khổng lồ nếu xét đến thực tế là từ năm 1966 (năm KMRB được thành lập) đến năm 1994, tổng số bài hát bị cấm chỉ là 74. Ngoài ra, trước đó lý do cấm các bài hát thường là 'tục tĩu' và 'gợi dục' trong khi đạo nhạc là một trường hợp khá hiếm... Hơn nữa, KMRB đã không điều tra tất cả các bài hát bị nghi ngờ đạo nhạc từ các nhà báo, những người trong ngành, các nhà phê bình âm nhạc và giới học thuật cho rằng còn nhiều bài hát đạo nhạc hơn những gì KMRB tiết lộ.
Ví dụ, Yong-Hyun Shin, cựu nhà sản xuất chương trình âm nhạc radio của đài SBS, đã lập ra một danh sách các bài hát bị nghi ngờ là đạo nhạc nhưng không bị KMRB cấm. Hiện tượng này là kết quả của sự phát triển quá nhanh của ngành công nghiệp âm nhạc để các công ty có thể theo kịp và có thể phát triển một cách bình thường.

Mặc dù quy mô ngành ngày càng mở rộng, các công ty cũng như các nhạc sĩ đều không có đủ kinh nghiệm và năng lực để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng để sáng tạo các tác phẩm gốc. Cần lưu ý rằng hầu hết các vụ đạo nhạc trong thời kỳ đó đều tập trung vào nhạc Nhật, chứ không phải âm nhạc Anh-Mỹ hay Âu (Tây), vốn chiếm ưu thế hơn trên thị trường toàn cầu.
Trong thời kỳ phát triển nhanh chóng, ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc có xu hướng dựa vào cách thức lai tạo và bản địa hóa đã được chứng minh - sử dụng âm nhạc nước ngoài vào văn hóa trong nước. Hơn nữa, trong khi âm nhạc Anh-Mỹ chính thức được phát hành, thì âm nhạc Nhật Bản lại không được phép chính thức vào thị trường Hàn Quốc.

Dựa trên thực tế là hầu hết khán giả Hàn Quốc không tiếp xúc với họ, nhiều nhà sản xuất và nhạc sĩ nghĩ rằng chỉ họ mới biết thông tin mới nhất về âm nhạc Nhật Bản, đó là một tính toán sai lầm lớn. Những động cơ này kết hợp với yếu tố quan trọng của số hóa, đã kích động sự bùng nổ của đạo nhạc.
Rõ ràng là khán giả Hàn Quốc thích những giai điệu theo phong cách Nhật Bản (chẳng hạn như trot), vì vậy việc những người sáng tạo, nhạc sĩ và nhà sản xuất thiếu đam mê sẽ chú ý đến xu hướng nhạc dance của Nhật Bản và sao chép nó là điều hoàn toàn tự nhiên. Sau nhiều scandal đạo nhạc, nhạc dance thế hệ mới nhanh chóng sa sút và biến mất trên thị trường. Tuy nhiên, mặc dù đây có thể được coi là ví dụ khi xét về nguồn gốc đạo nhái và sự non kém trong ngành công nghiệp, nó vẫn chứng tỏ được sức ảnh hưởng trong hơn một thập kỷ rưỡi sau khi nổi lên.
Nguồn: Nghiên cứu Phi quốc giá hóa và Tái tổ chức văn hóa