Cá sấu sông Nin một loại cá sấu nổi tiếng có tên khoa học là Crocodylus niloticus một loài cá sấu được xếp cùng họ với Crocodylidae. Vì loài cá sấu này được Laurenti mô tả trong khoa học vào năm 1768. Chúng là một loài cá sấu ở châu Phi có kích thước to lớn nhất được xem là động vật ăn thịt ám ảnh với mọi loài sinh vật kể cả con người ở trong khu vực sinh sống của chúng. Do đe dọa đến tính mạng con người mà chúng là động vật vừa bị ghét lại vừa được người dân sùng kính, nhất là ở Ai Cập cổ đại khi chúng đã được họ ướp xác và tôn thờ như là những vị thánh thần.
Hiện nay, dù chưa bị đe dọa tuyệt chủng thế nhưng quần thể cá sấu sông Nin tại nhiều quốc gia vẫn nằm trong danh sách nguy hiểm do số lượng đã sụt giảm đáng kể. Cũng giống như những loài cá sấu khác, thì chúng là loại động vật có tứ chi với 4 chân ngắn và bàn chân bẹt và dẹt, đuôi rất dài và cực kỳ khỏe, da cá sấu có vảy cùng với những hàng mai hóa xương được chạy dọc theo sống lưng cũng như ở đuôi của chúng, quai hàm rất khỏe. Mắt chúng có màng nhầy bảo vệ, mặc dù có nghe về huyền thoại "về nước mắt cá sấu" vì chúng có tuyến lệ và cũng có thể làm vệ sinh mắt bằng nước mắt của chúng.
Theo thống kê, cá sấu sông Nin một con có thể dài tới 5 m (16 feet), hiếm khi thấy chúng dài đến 5,5 m (18 feet). Được biết cá sấu sông Nin trưởng thành có thể nặng khoảng 225 kg (500 lb), những cũng có trường hợp cá thể nặng tới 700 kg (1.500 lb). Cũng giống như những loài cá sấu khác trên thế giới, chúng là một loài động vật lưỡng hình theo giới, thì con đực sẽ to hơn so với con cái khoảng 30%, sự chênh lệch này nhỏ hơn so với những loài cá sấu khác như: cá sấu nước mặn, cá sấu Trung Mỹ...
Cũng có những thông tin là kích thước của loài cá sấu này có thể dài tới 7 mét (23 ft) hoặc có thể lớn hơn, thế nhưng điều này cũng bị nghi ngờ vì các số liệu kích thước hay được thổi phồng lên. Con đực sẽ đạt đến một độ tuổi trưởng thành sinh dục khi chúng dài khoảng 3m (10 ft); trong khi những con cái thì khi chúng dài 2 - 2,5 m (6,5 – 8 ft). Điều này diễn ra vào khoảng năm thứ 10 cho cả hai giới trong các điều kiện bình thường. Đến độ tuổi sinh sản thì những con đực sẽ hấp dẫn con cái bằng cách gầm rống, phun nước từ mũi ra, phát ra rất nhiều thứ tiếng khác nhau.
Khi đã hấp dẫn được con cái thì con đực và con cái sẽ tìm đến nhau và giao phối. Sau khi giao phối khoảng 2 tháng sau cá sấu cái sẽ đẻ trứng. Việc làm ổ đẻ diễn ra vào tháng 11 hoặc là tháng 12, khi mùa khô ở miền bắc của châu Phi, và cũng là mùa mưa ở miền Nam. Những chỗ hay được lựa chọn và là nơi ưa thích để làm ổ sẽ là tại các bờ cát, ven bờ sông hoặc các chỗ nào khô ráo gần nước. Những con cái sẽ đào lỗ ở cách bờ sông khoảng vài mét và thường sâu khoảng 50 – 60 cm và đẻ khoảng từ 25 cho đến 80 trứng.
Với số lượng trứng được dao động theo từng quần thể khác nhau, thế nhưng trung bình khoảng thì khoảng 50 quả trứng 1 lần đẻ. Những ổ trứng của cá sấu cái có thể sẽ rất gần nhau bởi mùa sinh sản. Khi đã đẻ trứng xong, lập tức con cái phủ lấp trứng với một lớp cát mỏng để bảo vệ chúng trong thời gian khoảng 3 tháng trong thời kỳ con cái ấp trứng. Điều đặc biệt con đực sẽ thường hay nằm gần đó và cả hai sẵn sàng tấn công bở bất kỳ người hay động vật nào đe dọa đến ổ trứng của chúng.
Con cái chỉ rời ổ khi mà chúng cần phải điều chỉnh thân nhiệt bằng cách là ngâm mình rất nhanh xuống dưới nước hoặc tìm một chỗ có bóng râm. Dù là ổ trứng đã được cha mẹ chúng bảo vệ rất kỹ lưỡng nhưng chúng vẫn có thể bị con người hoặc các loài thằn lằn lớn (loài bò sát thuộc chi Varanus) hay là các động vật khác như chó sói lấy đi khi con mẹ đi tìm kiếm thức ăn tạm thời sẽ vắng mặt. Sau khi trứng nở những con cá sấu con sẽ ăn các loại côn trùng và những loài động vật không xương sống nhỏ khác ở dưới nước và chúng ta sẽ nhanh chóng được thích nghi cùng với các thức ăn từ động vật lưỡng cư, các loài bò sát nhỏ hơn và các loài chim.
Thế nhưng, món ăn ưa thích và chiếm 70% thức ăn của cá sấu sông Nin lại là cá, cho dù đối với những con cá sấu to lớn như thế này có khả năng ăn thịt sẽ gần như bất kỳ động vật nào có xương sống mỗi khi chúng đi uống nước, trường hợp duy nhất chỉ trừ voi và hà mã đã trưởng thành. Chúng cũng thường hay ăn thịt ngựa vằn, thịt của những hà mã non, trâu rừng, linh dương như gnu (phát âm nu - các loài động vật thuộc chi Connochaetes, trông giống như bò), hay thậm chí là các động vật lớn khác thuộc họ Mèo thậm chí là các con cá sấu khác loài hoặc con nhỏ hơn thông thường chúng thường hay tranh giành lãnh thổ hoặc con cái.
Khu vực sinh sống mà được ưa thích nhất của cá sấu sông Nin sẽ là dọc theo các con sông, trong các đầm lầy nước ngọt hoặc trong các hồ; trong một số trường hợp thì chúng sẽ sinh sôi ở các vùng nước lợ chẳng hạn như chạy dọc theo các cửa sông hay là ở các vùng ngập lụt mà có rừng đước mọc. Vậy chúng thông thường sẽ được tìm thấy ở những vùng của châu Phi về phía nam của sa mạc Sahara, ở Madagascar và sẽ dọc theo các lưu vực của sông Nin.
Hiện nay, thì người ta cũng ước tính có còn khoảng tầm 250.000 cho đến 500.000 cá thể là còn sống ở trong tự nhiên mà thôi. Tình trạng mội trường xấu, đặc biệt là biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của cá sấu sông Nin. Số lượng cá sấu giảm đáng kể trong nhiều năm trở lại đây vì tình trạng môi trường đáng báo động. Nếu chúng ta không có biện pháp tăng số lượng giống cũng như môi trường thuận lợi cho việc sinh sản của nó chắc chắn một điều không ai muốn có thể xảy ra, nếu không muốn nó bị tuyệt chủng.
Nguồn: casauhoaca.com