Khi xác định được một cách chính xác những mưu tính của kẻ thù. Hadim Jafer Pasha, một trong những vezir (cố vấn chính trị cấp cao hoặc bộ trưởng trong nội các) chủ chốt nhất và cũng là một hoạn quan đã được phái đi với một đội quân mà ông ta được toàn quyền lựa chọn nhằm tiến hành một cuộc đột kích bất ngờ để ngăn chặn bước tiến của kẻ thù. Khi rời khỏi doanh trại, Pasha bắt đầu cử tiếp các thám mã đi dò xét trước sức mạnh của kẻ thù, và nhanh chóng được cảnh báo rằng họ sẽ phải đối mặt với một số lượng kẻ thù đông đảo không thể đếm nổi. Trước tình thế này, Jafer Pasha vội cử người tới tấu trình với Padishah rằng nếu đối mặt với một đội quân khổng lồ như vậy thì lực lượng nhỏ bé mà ông đang chỉ huy sẽ chỉ có một kết cục ô nhục là thất bại. Tuy nhiên, ông cũng tuyên bố mình không hề quan tâm đến sinh mạng của bản thân, và sẵn sàng hy sinh nếu cần thiết vì Hồi giáo; do đó ông sẽ tiếp tục tiến lên phía trước. Lời tấu trình của ông đã dấy lên một cuộc tranh cãi truyền thống giữa các đại thần và rồi tất cả đều gạt bỏ lời cảnh báo của ông, cho rằng đó chỉ là cái cớ bao biện cho sự sự hèn nhát và đề xuất cử beylerbeyi Rumelia và đạo quân tỉnh này đi tiếp ứng cho Jafer. Cảm thấy bị xúc phạm vì điều này, Jafer cố gắng đối mặt với kẻ thù bằng tất cả lực lượng mà mình có. Sau khi tự trang bị vũ khí cho mình, Pasha chia pháo binh làm hai đội và chuyển các binh lính ra khỏi vùng đất bùn lầy lội, triển khai họ tới một địa điểm an toàn mà kẻ thù vẫn chưa thể phát hiện được.
Tuy nhiên không lâu sau khi quân ta được triển khai một cách sẵn sàng, kẻ thù đã tràn ngập ken cứng vùng đồng bằng Mehaj như bóng của các ngọn núi. Jafer Pasha, một chiến binh vùng biên điển hình, đã chiếm lĩnh được một địa điểm triển khai quân ưu việt mà từ đó có thể quan sát được trại của đối phương, cũng như một cửa biển rộng đằng xa - nơi có những cơn sóng dữ dội đập vào bờ biển. Mặc dù chỉ có ba ngàn quân, nhưng Pasha vẫn quyết tâm đối đầu với các đội tiên phong của địch. Binh lính đã noi gương ông và đánh bật những đợt tiến công đầu tiên của lũ ngoại đạo. Nhưng cuộc chiến dần trở lên khốc liệt với những người ngoan đạo. Jafer Pasha tiếp tục chiến đấu trong tuyệt vọng, khi mà gần như bùn và nước đã ngập đến ngực ông, khi mà phần lớn những binh lính của ông đều đã tử trận hoặc bỏ chạy khỏi chiến trường, khi mà ông gần như bị bắt làm tù binh: đó là một dịp hiếm hoi để người đàn ông này chứng tỏ sự táo bạo và anh dũng của mình trong cuộc chiến không cân sức.
Một số agha (danh hiệu danh dự cho một sĩ quan dân sự hoặc quân đội, hoặc thường là một phần của danh hiệu đó, và được đặt theo tên của một số chức năng dân sự hoặc quân sự trong Đế chế Ottoman) đã phải chạy tới chỗ ông, quỳ xuống van xin ông hãy rút quân. “Không có gì là dũng cảm” Họ nói: “khi mà một ít người buộc lòng phải chống lại một lực lượng mạnh hơn họ nhiều lần; điều đó không cần thiết, không thể tự hủy hoại chính mình chỉ vì để thoát khỏi sự nhơ nhuốc kẻ thù, nhất là khi chỉ có một số ít người có thể chiến đấu.” Các phó tướng tiếp tục van xin: “Trong khi đó, hãy rút quân lại về doanh trại, đừng để trận chiến này hủy hoại đội quân này mà không một ai có thể chịu được trách nhiệm. Sự hy sinh một cách vô ích này sẽ không mang lại bất cứ lợi ích chung nào.” Hiển nhiên, Pasha bỏ mặc lời cầu xin của họ cho đến khi đêm xuống. Phải tới buổi đêm, viên thủ lĩnh can đảm này mới chấp nhận lời khuyên và cầu xin của họ. Một kẻ tên là Ahmed, nhân lúc trời tối, đã cưỡi ngựa chạy thẳng đến trước cổng Argia báo động. Toàn bộ quân trang đã rơi vào tay kẻ thù. Khoảng ba bốn chục người đã chết, và nếu không có màn đêm, chắc chắc không một người nào có thể sống trước sự tấn công của những kẻ buộc mình trong khung sắt. Cuộc rút quân được tiến hành một cách kỳ diệu và nhanh chóng, một cuộc hành trình xuyên màn đêm thay cho một cuộc hành quân kéo dài mất ba ngày.
Khi Padishah nhận được tin tức về thảm họa này - mà lúc này đã lan rộng khắp nơi, Người trở lên vô cùng tức giận và phật ý. Jafer đã bị thất sủng, bị khiển trách vì hành động mạo hiểm của mình - vốn đáng lẽ chỉ nên được tiến hành trong ban đêm, cuối cùng bị tước bỏ toàn bộ chức tước và tài sản. Vị trí của ông sau đó được thay thế bởi Muhammad Pasha, con trai của Sinan Pasha.
Buổi sáng sau thảm họa đó, Vizer i-Azam, Şeyḫülislām cũng như toàn bộ triều thần đều được triệu tập tới lều của Padishah, để bàn xem có nên đối đầu với kẻ thù trên chiến trường không. Gần như mọi đại thần đứng tuổi đều phản đối việc đối diện với đối phương, ngoại trừ Hoca Sadeddin Efendi - Şeyḫülislām. Ông đứng dậy và đọc một bài diễn văn hào hùng: “Không có gì phải nghi ngờ cả, chiến đấu là điều đúng đắn,” ông tiếp tục, “hãy cho kẻ thù của đức tin trận chiến mà chúng muốn, chứ không phải để cho chúng làm ô nhục chúng ta khi chúng vượt qua chúng ta mà không gặp bất cứ khó khăn nào. Nếu chúng biết được rằng chúng ta không sẵn sàng đối diện với chúng hoặc chúng ta đang tính lùi bước, chắc chắc kẻ thù sẽ tấn công chúng ta. Hãy để chúng nghĩ thế, giống như lừa một con chim vào trong lồng. Quan trọng hơn,” ông nhấn mạnh, “Không bao giờ có chuyện một Padishah lại bỏ chạy khi đối mặt với nguy hiểm!” Ngay cả khi mọi thành viên đã tập hợp đầy đủ trong lều của Padishah, ông vẫn tiếp tục công việc của mình và bổ sung thêm: “Tình hình trong pháo đài cũng sẽ không thuận lợi chút nào nếu chúng ta dồn vào đó và chiến đấu trong một không gian hẹp. Nếu kẻ thù mang được pháo lên các ngọn đồi xung quanh và triển khai thành công, sẽ rất khó khăn cho chúng ta nếu muốn chống lại sự tấn công của chúng. Vùng đồng bằng nơi kẻ thù đóng quân cung cấp một không gian rộng lớn thích hợp cho chúng ta trổ tài: đó là nơi chúng ta sẽ đến và chiến đấu. Đây là điều duy nhất mà chúng ta nên làm. Chúng ta phải tấn công chúng chứ không phải để chúng tấn công chúng ta.” Bài diễn văn đầy hào hùng này đã gây ấn tượng mạnh đến lòng nhiệt huyết và con tim của Padishah, đánh thức lòng dũng cảm bẩm sinh mà Nguời được thừa kế từ tổ tiên.
Một số đại thần đề xuất nên cử Hasan Pasha, beylerbeyi của Rumelia, chỉ huy cuộc tấn công tiếp theo. Điều này đã bị phản đối bởi phần còn lại của triều đình. Họ cho rằng chỉ huy trận đánh nên được trao cho một người có khả năng chiến lược - đây là điều tối cần thiết, và hy vọng rằng Padishah nên là người nắm toàn quyền chỉ huy. Đề xuất này đã được Người chấp thuận, và cuộc tranh luận đã kết thúc. Reis Efendi sau đó đã gửi tin báo cho Fatih Giray, anh trai của Hãn Tatar vùng Crimea, lệnh cho ông ta phải để mắt với mọi hoạt động và bước đi của kẻ thù.
Sau khi buổi triệu tập kết thúc, Vizer i-Azam Ibrahim Pasha đã vào Agria và kiểm tra công tác chuẩn bị phòng ngự của pháo đài. Yusuf Sinan Pasha và Lala Muhammad Pasha, beylerbeyi của Anatolia cùng với đạo quân Anatolia được giao nhiệm vụ bảo vệ Agria. Đến chiều tối, ông quay lại lều của Padishah và tâu rằng, nếu quân đội Anatolia là những người phòng ngự Agria, thì khi Người tiến lên đối mặt với kẻ thù trên chiến trường, Người sẽ thiếu đi một sự bảo vệ quan trọng bên sườn. “Điều này là một quyết định nguy hiểm,” Şeyḫülislām nói, “Nếu kẻ thù cố gắng đánh chiếm Agria, chắc chắn quân đồn trú có thể cầm cự cho đến khi lực lượng tiếp viện đến được nơi. Nhưng một khi họ đồn trú trong pháo đài, thì họ sẽ không thể giúp đỡ gì được trận chiến. Do đó, quân đội Anatolia nên được bố trí làm cánh phải của chúng ta, theo đúng truyền thống cổ xưa.” Vì vậy, tin tức lần nữa được chuyển đến cho Lala Muhammad Pasha, lệnh cho ông này phải cũng như binh lính dưới quyền phải sẵn sàng chiến đấu.
Sau khi ban bố các mệnh lệnh liên quan đến việc tu sửa lại hệ thống phòng ngự của pháo đài cũng như chỉ định những đơn vị phòng ngự và sắp xếp chỗ ở cho binh lính bị thương, còn lại phần lớn những người nhiệt thành với đức tin chính thống đã sẵn sàng cho trận chiến.
Sáng sớm ngày đầu tiên của tháng Rabia ath-thani, sau khi quân đội sẵn sàng cho trận chiến, Padishah - cái bóng của Allah trên trần gian - đã rời khỏi chiếc kiệu sang trọng để cưỡi lên con chiến mã kiêu hùng; các quân đoàn của đức tin thực sự bắt đầu hành quân. Họ hành quân cho đến quá trưa, qua địa điểm mà Jafer Pasha đã dừng lại để tổ chức cuộc đột kích bất ngờ trước đó. Vezir i-Azam vượt lên một chút so với đạo quân chính, để dò xét chính xác thực lực và doanh trại của kẻ thù; nhằm đưa ra quyết định sẽ bắt đầu cuộc chiến vào ngày hôm sau khi mà đã có những quan sát nhất định. Ông quay lại lều của mình vào lúc chập tối, và khi vừa cầu nguyện xong, nhân vật số hai của Nhà nước Vĩ đại đã vô cùng bất ngờ khi nhận được một bức thư từ Padishah: “Ta định bổ nhiệm ngươi, cố vấn tin cậy của ta làm tổng chỉ huy quân đội; có thể ta sẽ quay lại Konstantiniyye, ta vẫn đang phân vân điều này?”
Ibrahim Pasha, hoàn toàn ngạc nhiên cũng như xấu hổ trước sự thay đổi đột ngột này của Padishah, hối hả chạy tới chỗ của Reis Efendi bàn về vấn đề này. Tuy nhiên, một thị thần đã đến chỗ của hai người nói rằng Padishah triệu kiến họ. Cả hai người bước vào khu lều của Padishah, nơi mà bữa tối đang diễn ra. Ở đó, Ghaznafer Agha - chỉ huy quân solak - đã kéo Ibrahim Pasha sang một bên để thông báo một tin mật trước khi đi cùng họ vào trong một gian lều, và nói rằng họ hãy tạm chợp mắt một lát. Không lâu sau đó, ba mươi sáu kẻ "giam mình trong khung sắt" (ám chỉ cuirassier) đã được giải tới trước lều của thánh thượng theo lệnh của Fateh Gherai.
Những tù binh này được lệnh phải khai ra thông tin về kẻ thù, và cả Ibrahim Pasha và Ghaznafer được giao nhiệm vụ thẩm vấn. Trong buổi thẩm vấn đó, Ibrahim Pasha đã nói với Ghaznafer Agha: “Hãy thưởng cho chúng một cách xứng đáng theo lệnh của Padishah, và hãy đảm bảo an toàn cho tính mạng của họ.” Agha trả lời rằng ông sẽ lập tức thi hành. Mưu kế này của hai người ngay lập tức thành công, và các tù binh khai sạch những gì mà chúng biết. Tất cả đều xác nhận một thông tin rằng một liên minh do những kẻ cai trị ngoại đạo ở phía tây thành lập nhằm xóa xổ Nhà nước Vĩ đại; hơn thế nữa, Zughmund, hoàng thân của Transylvania, đã gia nhập với kẻ thù. Ngay sau khi khai ra mọi điều mình biết, các tù binh ngay lập tức bị giết chết và Ibrahim quay về lều của ông.
Buổi sáng ngày thứ tư của tháng, quân đội một lần nữa lại hành quân, nhưng lần này họ bỏ lại những quân trang hàng lý nặng ở phía sau. Padishah, được tháp tùng bởi hai bên là các đại thần và tướng lĩnh, diễu hành một cách từ tốn và dừng lại tại một địa điểm thuận lợi cho quan sát nhưng an toàn nằm ngoài tầm bắn của đại bác địch. Tuy nhiên, Người cảm thấy rằng thật hèn nhát nếu đứng quan sát tại một địa điểm như vậy, quyết định phi ngựa một cách liều lĩnh tiến lên phía trước một chút, trước khi ra lệnh cho toàn quân ngừng lại.
Đức thánh thượng, với lá cờ trận của riêng mình, được vây quanh bởi sáu đơn vị kỵ binh Kapikulu. Các vezir, theo chức tước của mình, cưỡi ngựa bên trái Người trong khi Sheikh al Islam cùng với hai phán quan quân sự [của Rumelia và Anadolu] cưỡi ngựa bên phải Người. Gia súc và các xe hàng lớn được chuyển theo phía sau họ, và do một đội kỵ binh ở phía sau chỉ huy và bảo vệ. Các toa xe thùng được ghép lại thành một chiến lũy vững chắc và đặt phía trước thánh thượng và các đại thần. Các Janissary đầy nhiệt huyết và hăng hái, được triển khai lên phía trước. Hasan Pasha, tổng trấn Rumelia cùng với tổng trấn Temisvar được triển khai ở một bên; còn tổng trấn Anatolia - Lala Muhammad Pasha, tổng trấn Caramania, tổng trấn Haleb và tổng trấn Meroesh theo đúng truyền thống cổ xưa ở phía còn lại. Trong khi đó, quân khinh kỵ và lính tiên phong thám mã được chỉ huy bởi Jaghaleh Zadeh.
Sau khi hai lực lượng đối mặt với nhau; Sinan Pasha, cùng với lính Cherkess, Fatih Giray, Murad Pasha - beylerbeyi Diarbekir, và nhiều thủ lĩnh dũng cảm khác đã thúc ngựa xông thẳng lên trước. Lăm lăm gươm trên tay, họ vừa hô vang tiếng hô xung trận vừa lao thẳng về phía cuộc huyết chiến, không hề ngần ngại khi phải đối diện với cái chết. Tuy nhiên, khả năng cơ động của họ đã bị hạn chế bởi chiến trường đang rơi vào tình trạng lầy lội và ngập nước. Khu vực đồng lầy này như một nhánh sông nhỏ, chứa hầu hết lượng nước của thu lũng Mehaj, trừ vài con lạch nhỏ thì nước hoàn toàn không thể thoát ra ngoài; trong khi đó, doanh trại của kẻ thù lại được củng cố chắc chắn.
Tuy nhiên, cuối cùng trận chiến cũng bắt đầu và ngày càng trở nên khốc liệt. Các vezir thay phiên nhau phi ngựa xuống chỗ từng đội quân một, động viên khích lệ họ trước khi từng đội quân một tiến thẳng vào trận chiến; rồi quay lại báo cáo tình hình cho Padishah. Đại bác của kafir liên tục bắn phá từ khoảng cách xa, khiến cho những chiến binh của đức tin không thể tiếp cận đủ gần với kẻ thù. Khoảng giữa trưa, một viên đạn bay ngang qua trên đầu Padishah và các triều thần, may mắn là không có ai bị thương; nhưng điều này khiến cho Padishah bị đặt vào nguy hiểm, do đó mà triều thần hộ giá Người tới lều của Yunus Agha - chỉ huy đội kỵ binh, một chiến binh tử vì đạo.
Ở phía đối diện bên kia đồng lầy, khoảng một ngàn kafir đang chen chúc bảo vệ một nhà thờ đổ nát, nơi mà các akinji đang lao tới nhằm lấy đầu kẻ thù làm những quả táo để tập bắn. Tuy nhiên, hàng ngàn kẻ thù cũng lao tới tiếp viện cho đồng đảng với chúng. Lũ ngoại đạo đó đã lội qua vùng lầy lội, như một con lợn rừng lên cơn điên dại, mong muốn được giáp chiến với những người ngoan đạo. Nhân lúc kẻ thù đang bì bõm lội trong bùn, người Hồi giáo tung ra hàng loạt trận mưa tên xuống đầu chúng; trong khi đó Jaghaleh Zadeh và quân Cherkess - nấp sau một ngọn đồi, đã lao ra tấn công, khiến cho vô số quân địch chết và bị thương. Quả thật Zadeh gần như đã lấp một phần đồng lầy bằng xác chết của chúng. Toàn bộ đám nhạc công và kèn trống của quân địch đã bị chúng ta bắt được, rồi chuyển tới dâng công trước Padishah. Một số kẻ khác cố gắng đánh trả để rút chạy, số khác thì cố gắng để chiếm lại được phòng tuyến của chúng. Nhưng một đội lính Tarta chờ sẵn đã lao ra tước vũ khí chúng, rồi xích những kẻ còn lại giải tới trước Padishah. Tại đây, cái bóng của Allah trên trần thế đã ra lệnh trừng phạt chúng, và một loạt thủ cấp của kẻ thù đã lăn lông lốc trên mặt đất.
Cho đến lúc này, vận may vẫn ở bên phía những con người ngoan đạo; nhưng màn đêm dần buông xuống với bóng tối và mây mù, khiến cho cả hai bên đều phải ngừng chiến lại. Một số chiến binh đã vứt bỏ mọi hành trang nặng xuống đất, và tiếp tục ngồi trên lưng ngựa như thể chuẩn bị sẵn cho một cuộc tấn công bất công. Một số khác bắt đầu hạ trại và dần đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên đó chỉ là một số ít, mặt trận quá mức hỗn độn để có thể ban một mệnh lệnh rõ ràng; phần lớn các chiến binh còn lại quyết định ngủ cả đêm trên lưng ngựa. Khắp mọi nơi đều được cắt cử canh gác cẩn mật, nhưng sự yên tĩnh tiếp tục kéo dài suốt cả đêm dài, cho đến khi cuộc chiến được tiếp tục vào sáng hôm sau.
Những ánh nắng đầu tiên của buổi sáng hôm sau cũng đã đến. Đó là ngày Sabbath, rơi vào mùng năm của tháng Rabia ath-thani. Padishah lên ngựa ngay khi mặt trời vừa lên; trống hiệu đã được gióng lên; các đạo quân chiến thắng đã vào vị trí sẵn sàng; với niềm tin đặt vào nơi Allah, họ hùng dũng tiến lên đối mặt với những kẻ thù của đức tin. Những chiến binh ngoan đạo sớm nhận ra rằng, kẻ thù của họ đã từ bỏ phòng ngự nhà thờ - nơi mà ngày hôm qua chúng phòng thủ. Thay vào đó, một lượng lớn những kẻ vô đạo đã tập trung bên ngoài nhà thờ - cách bãi cạn cánh trái khoảng nửa giờ đi bộ - do chúng nhận thấy không có khả thi trong việc bảo vệ các bãi cạn còn lại. Quân ta như sóng triều dâng, ào ào tiến về phía trước, vượt qua con sông án ngữ giữa họ và kẻ thù, và sẵn sàng tấn công hàng phòng ngự của quân vô đạo: các janissary đã để tay sẵn lên cò súng, các khẩu pháo đã được bố trí xong xuôi, và mọi chiến binh đã sẵn sàng chờ đợi một tín hiệu đầu tiên báo hiệu cuộc chiến bắt đầu. Dù Padishah không vượt sông, nhưng Người cũng quyết định ngự tại một chiếc lều dựng ngay tại bờ sông để theo dõi trận chiến. Jaghaleh Zadeh, chỉ huy quân tiên phong, đã dàn trận đối địch chính diện với kẻ thù.
Mặc dù người Hồi giáo đã tập trung cao độ để sẵn sàng đối mặt với kẻ thủ một mất một còn nhưng kỵ lạ thay, không một kẻ thù nào xuất hiện để giao tranh với họ cho đến buổi trưa. Cả hai bên cứ án binh bất động như vậy. Đột nhiên đúng vào giữa trưa, bộ binh của kẻ thù bắt đầu di chuyển ra khỏi hàng phòng ngự, sau đó là tới lũ dragoon bọc sắt; từng đoàn quân nối tiếp nhau nâng số lượng kẻ thù lên tới 15-16,000 người, tạo lên một thách thức không thể cản nổi. Đại bác của kẻ thù được bố trí ở địa điểm thuận lợi nhất liên tục oanh tạc. Mỗi bước đi của kẻ thù, được yểm trợ bởi súng trường và đại bác, tiếp tục tiến về phía người Hồi giáo như một cơn lũ điên cuồng, điều mà Rustam Pasha khó có thể nào ngăn cản nổi. Đội hình của chúng vững chắc như những ngọn núi sắt và không thể bị phá hủy. Cánh phải quân ta đã bị đánh bật và rơi vào hỗn loạn; cánh trái quân ta - bao gồm cả các kapikulu - sau khi tiến hành một sự kháng cự mãnh liệt và oai hùng, cũng dần bị áp đảo và phải lui về phía đồng lầy. Vào thời điểm cuộc hỗn chiến diễn ra, Fatih Giray và lính Tarta đã tổ chức xung phong và tạm thời chặn lại được bước tiến của kẻ thù. Một bộ phận quân địch sau khi chọc thủng cánh phải quân ta, đã nhanh chóng tạo thành một sức ép lớn hướng tới khu lều của triều đình. Hasan Pasha và quân đội Rumelia phải cố gắng tổ chức đánh úp sau lưng kẻ thù, làm chậm bước tiến của chúng trong một thời gian ngắn trước khi bị đẩy lùi. Các sipahi, mệt mỏi cũng như tuyệt vọng sau thất bại đó, buộc lòng phải rút lui. Những binh lính còn lại, nhận thấy điều này cũng nhanh chóng vứt bỏ vũ khí trên chiến trường mà tháo chạy. Một phần của điều này bắt nguồn từ việc có tin đồn rằng Padishah đã rút khỏi chiến trường trước đó, do đó mà phần lớn quân đội đã bỏ chạy: một số về Belgrade, một số khác tới Buda, v.v. và để lại cho kẻ thù một con đường không ai phòng ngự dẫn thẳng đến chỗ hoàng thượng và triều thần.
Các toán quân chiến thắng của kẻ thù đã nhanh chóng biến thành lũ vô tổ chức và trộm cướp khi chúng bước tới doanh trại quân ta, tranh giành nhau bất kỳ thứ gì trong tầm với. Năm ngàn tên khốn kiếp lao đến như tên bắn vào thời điểm tuyệt vọng nhất của quân ta. Những người Hồi giáo và kafir, vứt súng trường sang một bên, và lao vào chém giết lẫn nhau với gươm giáo trên tay. Các vezir và triều thần vây xung quanh hoàng thượng, tạo thành một bức tường sống quyết tâm bảo vệ cho Người. Một số tên ngoại đạo cố gắng cắt đứt dây lều của thánh thượng, nhưng các agha bên trong đã lao ra chẻ xác chúng. Đó là lúc mà thời khắc phán quyết đã điểm, và chỉ một số ít người Hồi giáo – những người can trường ở lại bên Padishah, chứng tỏ được tấm lòng son sắc của mình. Vị đại giáo sĩ, Sheikh al Islam, xông xáo đi động viên các binh lính, ông nhấn mạnh: “Chiến thắng chỉ đạt được khi ta kiên nhẫn, và sau khó khăn thì sẽ đến ngọt ngào.” Ông xoa dịu sự sợ hãi của quân đội, sự lo lắng của triều thần và cả sự nhụt chí của hoàng thượng.
Những kẻ ngoại đạo đê hèn giờ đây tự cho rằng chúng đã thành công, rằng sự kháng cự của những con người ngoan đạo đã không còn nữa, và giờ đây chúng nhanh chóng lao vào các cám dỗ vật chất tầm thường. Allah toàn năng đã không cho phép chúng làm được điều đó. Người khiến cho những kẻ ngoại đạo tự tách nhau ra đi sục sạo khắp doanh trại để kiếm chiến lợi phẩm. Và vinh danh Người, Allah đã ban phước lành và sự dũng cảm cho các binh lính còn ở trong trại, những chú bé chăn lạc đà, đầu bếp, v.v. sử dụng mọi thứ mà họ có sẵn để tiêu diệt kẻ thù. Những kẻ cướp bóc vô cùng sợ hãi, và nhanh chóng tháo chạy. Tiếng kêu khóc của kẻ thù vang lên tận trời cao, thúc giục những người Hồi giáo đã rời khỏi nơi ẩn náu để quay lại phản công, và để lại rất nhiều xác quân địch trên đường truy đuổi. Theo các ghi chép xác thực nhất thì khi quân ta đảo ngược tình thế từ thất bại đến chiến thắng, chúng ta đã giết được ít nhất 100.000 tên ngoại đạo. Chiến thắng đã được quyết định ngay cả khi nỗi sợ hãi đã khiến phần lớn các tín đồ tháo chạy tứ phía. Người Hồi giáo cuối cùng đã chiến thắng trong trận Mehaj. Chính nghĩa đã chiến thắng. Danh tiếng của Hồi giáo và Nhà nước Vĩ đại được nâng cao hơn bao giờ hết. Chưa một thời điểm nào, một triều đại nào trong quá khứ có thể đạt được vinh quang như vậy.
Chiến thắng này đạt được vào ngày thứ 5 của Rabia ath-thani, năm 1005 theo lịch Hồi giáo.
Tùng Anh - NNCLS